Hồ Xuân Hương là một thi sĩ nổi tiếng sống trong giai đoạn thế kỷ 19, bà còn được mệnh danh là bà chúa thơ Nôm với nhiều bài thơ xuất chúng, thơ của bà hay và có cảm giác vừa thanh vừa tục. Thơ Hồ Xuân Hương thường xuyên được trình bày theo thể thơ thất ngôn bát cú hoặc thất ngôn tứ tuyệt, bút pháp điêu luyện, chủ yếu phần chữ Nôm nhiều phần đặc sắc hơn chữ Hán. Hồ Xuân Hương thi sĩ kì lạ của dòng thi ca cổ điển Việt Nam đương thời khi đưa ra cái nhìn đối lập với truyền thống đạo đức, nhưng không suy đồi.
Thơ Hồ Xuân Hương khá phong phú, đa dạng về đề tài, chủ đề. Bà được mệnh danh là “bà chúa thơ Nôm”. Những sáng tác của bà sống mãi với thời gian, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Hồ Xuân Hương là một người phụ nữ thông minh, có học và giao du rộng rãi với các nhà văn, nhà thơ thời bấy giờ.Những sáng tác của Hồ Xuân Hương không chỉ có giá trị sâu sắc về mặt nội dung mà còn cho thấy phong cách nghệ thuật hết sức độc đáo. Hãy cùng nhau theo dõi những trang thơ của bà nhé!
Tuyển tập những bài thơ Nôm đặc sắc nhất của Hồ Xuân Hương
Thơ của Hồ Xuân Hương táo bạo, nhiều thủ pháp nghệ thuật độc đáo và ẩn chứa nhiều nét văn hóa dân gian phồn thực thú vị. Thơ bà là sự kết hợp giữa sự hóm hỉnh sâu cay, nỗi đau với cuộc đời, và sự ngạo nghễ trong tinh thần.Những tác phẩm chính của bà đến nay được lưu truyền chủ yếu là những bài thơ Nôm với khoảng năm mươi bài được in trong tập thơ “ Xuân Hương thi tập”. Đây là tập thơ Nôm xuất sắc của nền văn học dân tộc.Sau đây là một số bài thơ như thế.
CẢNH THU
Thánh thót tầu tiêu mấy giọt mưa,
Bút thần khôn vẽ cảnh tiếu sơ,
Xanh om cổ thụ tròn xoe tán,
Trắng xoá tràng giang phẳng lặng tờ.
Bầu dốc giang sơn say chấp rượu,
Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ
Cho hay cảnh cũng ưa người nhỉ,
Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ.
CHẾ SƯ
Chẳng phải Ngô chẳng phải ta
Đầu thì trọc lốc áo không tà
Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm
Vãi nấp sau lưng sáu bảy bà
Khi cảnh khi tiu khi chũm choẹ
Giọng hì giọng hỉ giọng hi ha
Tu lâu có nhẽ lên sư cụ
Ngất nghểu toà sen nọ đó mà
CHƠI KHÁN ĐÀI
Êm ái chiều xuân tới Khán Đài
Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai
Bốn mùa triêu mộ, chuông gầm sóng
Một vũng tang thương, nước lộn trời
Bể ái ngàn trùng khôn tát cạn
Nguồn ân trăm trượng dễ khơi vơi
Nào là cực lạc là đâu tá?
Cực lạc là đây, chín rõ mười
CHÙA HƯƠNG TÍCH
Bày đặt vì ai khéo khéo vòm
Nứt ra một lỗ hổng hòm hom
Người quen cửa Phật chen chân xọc
Kẻ lạ bầu Tiên mỏi mắt dòm
Giọt nước hữu tình rơi thánh thót
Con thuyền vô trạo cúi lom khom
Lâm tuyền quyến cả phồn hoa lại
Rõ khéo trời già đến dở dom
CHÙA SÀI SƠN
Khen thay con tạo khéo khôn phàm
Một đố giương ra biết mấy ngàm
Triền đá cỏ leo sờ rậm rạp
Lạch khe nước rỉ mó lam nham
Một sư đầu trọc ngồi khua mõ
Hai tiểu lưng tròn đứng giữ am
Đến nơi mới biết rằng Thánh Hoá
Chồn chân mỏi gối hãy còn ham
DU CỔ TỰ
Thầy tớ thong dong dạo cảnh chùa
Cầm thư lưng túi rượu lưng hồ
Cá khe lắng kệ đầu ngơ ngác
Chim núi nghe kinh cổ gật gù
Then cửa từ bi nêm chật cánh
Nén hương tế độ cắm đầy lò
Nhà sư ướm hỏi nhà sư tí
Phúc đức nhà ngươi được mấy bồ
DỮ PHẠM TẾ TỬU XƯỚNG HỌA kỳ 2
Kìa ai tỉnh, kìa ai say
Kìa ai ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Khoan khoan xin hãy dừng tay lại
Chớ mó hang hùm nữa mất tay
ĐÁ ÔNG BÀ CHỒNG
Khéo khéo bày trò tạo hoá công
Ông Chồng đã vậy lại Bà Chồng
Tầng trên tuyết điểm phơ đầu bạc
Thớt dưới sương pha đượm má hồng
Gan nghĩa dãi ra cùng chị Nguyệt
Khối tình cọ mãi với non sông
Đá kia còn biết xuân già giặn
Chả trách người ta lúc trẻ trung
ĐÁNH ĐU
Bốn cột khen ai khéo khéo trồng,
Người thì lên đánh kẻ ngồi trông,
Trai co gối hạc khom khom cật
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.
Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,
Hai hàng chân ngọc duỗi song song.
Chơi xuân đã biết xuân chăng tá.
Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không!
ĐỀ NHỊ MĨ NHÂN ĐỒ
Ấy bao nhiêu tuổi hỡi cô mình
Chị cũng xinh mà em cũng xinh
Trăm vẻ như in tờ giấy trắng
Ngàn năm còn mãi cái xuân xanh
Phiếu mai chăng dám đường kia nọ
Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh
Có một thú vui sao chẳng vẽ
Trách người thợ ấy khéo vô tình
HANG CẮC CỚ
Trời đất sinh ra đá một chòm
Nứt làm đôi mảnh hổng hòm hom
Kẽ hầm rêu mọc trơ toen hoẻn
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm
Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm
Con đường vô ngạn tối om om
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc
Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm
HÀNG Ư THANH
Ðứng tréo trông ra cảnh hắt heo
Ðường đi thiên thẹo quán cheo leo
Lợp lều mái cỏ tranh xơ xác
Xỏ kẽ kèo tre đốt khẳng kheo
Ba chạc cây xanh hình uốn éo
Một dòng nước biếc cỏ lèo tèo
Thú vui quên cả niềm lo cũ
Kìa cái diều ai gió lộn lèo
NÚI BA ĐÈO
Một đèo một đèo lại một đèo
Khen ai khéo vẽ cảnh cheo leo
Cửa son tía ngắt lơ thơ móc
Đường đá xanh rì lún phún rêu
Phưởng phất chồi thông cơn gió tốc
Mịt mờ ngọn cỏ lúc sương gieo
Hiền nhân quân tử ai là chẳng
Mỏi gối chồn chân cũng muốn trèo
NÚI KẼM TRỐNG
Hai bên thời núi giữa thời sông
Có phải đây là Kẽm Trống không
Gió vật sườn non kêu lắc rắc
Sóng dồn mặt nước vỗ long bong
TRÁCH CHIÊU HỔ
Sao nói rằng năm lại có ba?
Trách người quân tử hẹn sai ra.
Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt,
Nhớ hái cho xin nắm lá đa.
CHIÊU HỔ HỌA LẠI:
Rằng gián thì năm, quý có ba
Bởi người thục nữ tính không ra.
Ừ rồi, thong thả lên chơi nguyệt
Cho cả cành đa lẫn củ đa.
Những bài thơ Nôm dí dỏm, sâu cay
Thơ Nôm của Hồ Xuân Hương có thể nói là những bài thơ xuất sắc và độc đáo nhất của văn học trung đại Việt Nam. Thơ của bà táo bạo, nhiều thủ pháp nghệ thuật độc đáo và ẩn chứa nhiều nét văn hóa dân gian phồn thực thú vị. Thơ bà là sự kết hợp giữa sự hóm hỉnh sâu cay, nỗi đau với cuộc đời, và sự ngạo nghễ trong tinh thần.
HỎI TRĂNG
bài 1
Một trái trăng thu chín mõm mòm,
Nảy vừng quế đỏ đỏ lòm lom!
Giữa in chiếc bích khuôn còn méo,
Ngoài khép đôi cung cánh vẫn khòm.
Ghét mặt kẻ trần đua xói móc,
Ngứa gan thằng Cuội đứng lom khom.
Hỡi người bẻ quế rằng ai đó,
Đó có Hằng Nga ghé mắt dòm.
KHÓC TỔNG CÓC
Hỡi chàng ôi hỡi chàng ôi
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé
Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi
LỠM HỌC TRÒ
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
Lại đây chị dạy lối làm thơ
Bướm non ngứa lợi châm hoa rữa
Dê bé buồn sừng húc giậu thưa
MỜI TRẦU
Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi
NHĨ HÀ TỨC CẢNH
Thấp thoáng đầu ghềnh lún phún mưa
Đố ai vẽ được cảnh tiêu sơ
Xanh om cổ thụ tròn như tán
Trắng xóa tràng giang phẳng ngỡ tờ
Còi mục thét trăng miền khoáng dã
Lưới ngư chăng gió bãi bình sa
Chuông ai đứt nối bên kia tá
Lầm lỡ chung tình một túi thơ
QUÁN SỨ TỰ
Quán Sứ chùa xưa cảnh vắng teo
Thương ôi sư đã hóa ra mèo
Sáng banh vắng kẻ khua dùi mõ
Trưa trật không người quét kẽ rêu
Chí chát chày kình im lại đấm
Lầm rầm tràng hạt đếm cùng đeo
Buồm từ cũng rắp sang Tây Trúc
Gió vật cho nên phải lộn lèo
SƯ HOẠNH DÂM
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Làm chi một chút tẻo tèo teo
Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc
Trái gió cho nên phải lộn lèo
TỰ TÌNH
Tiếng gà xao xác gáy trên vòm
Oán hận trông ra khắp mọi chòm
Mõ thảm không khua mà cũng cốc
Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om
Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ
Sau hận vì duyên để mõm mòm
Tài tử văn nhân ai đó tá
Thân này đâu đã chịu già tom
CANH KHUYA
Canh khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan mấy nước non
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy chòm
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình son trẻ tí con con
TIỄN NGƯỜI LÀM THƠ
Dắt díu đưa nhau đến cửa chiền
Cũng đòi học nói nói không nên
Ai về nhắn nhủ phường lòi tói
Muốn sống đem vôi quét trả đền
TỨC SỰ
Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồng
Nín đi kẻo thẹn mấy non sông
Ai về nhắn nhủ đàn em nhé
Xấu máu thời khem miếng đỉnh chung
VỊNH ĐỜI NGƯỜI
Trăm năm ba vạn sáu ngàn ngày
Dẫu có ngàn vàng khó đổi thay
Trong núi ngàn năm cây vẫn có
Dưới trần trăm tuổi dễ không ai
Nghĩ đường danh lợi lòng thêm chán
Thấy kẻ gian ngoan bụng lại đầy
Đắng xót ghê thay mùi tục lụy
Bực mình theo Cuội tới cung mây
VỊNH NẰM NGỦ
Mùa hè hây hẩy gió nồm đông
Tiên nữ nằm chơi quá giấc nồng
Lược trúc chải cài trên mái tóc
Yếm đào trễ xuống dưới nương long
Ðôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm
Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt
Ði thì cũng dở ở sao xong
Chùm thơ hay viết về thân phận đàn bà của Hồ Xuân Hương
Ở thơ của Hồ Xuân Hương có tình yêu về gia đình, quê hương, đất nước. Tuy nhiên, nét đặc sắc nhất làm nên thương hiệu của Hồ Xuân Hương đó là những bài thơ viết về những người phụ nữ có số phận bất hạnh, nổi trội trong xã hội phong kiến.Là nhà thơ nữ viết về phụ nữ, Hồ Xuân Hương đã có rất nhiều tác phẩm đặc sắc viết về cuộc đời và thân phận của người phụ nữ trong xã hội xưa. Xin giới thiệu đến bạn các bạn chùm thơ hay viết về thân phận đàn bà của Hồ Xuân Hương, hãy cùng tham khảo nhé!
CÁI QUẠT
Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa
Duyên này tác hợp tự ngàn xưa
Chành ra ba góc da còn thiếu
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa
(Quốc văn tùng ký)
Bài này trong văn bản chỉ có 4 câu, các bản quốc ngữ sau này có thêm 4 câu nữa:
Mát mặt anh hùng khi tắt gió
Che đầu quân tử lúc sa mưa
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa
BÁNH TRÔI NƯỚC
Thân em thời trắng phận em tròn
Bảy nổi ba chìm mấy nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Nhưng em vẫn giữ tấm lòng son
LẤY CHỒNG CHUNG
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Năm chừng mười họa hay chăng chớ
Một tháng đôi lần có cũng không
Cố đấm ăn xôi xôi lại hỏng
Cầm bằng làm mướn mướn không công
Nỗi này ví biết dường này nhỉ
Thời trước thôi đành ở vậy xong
THƯƠNG ÔI PHẬN GÁI
Thương ôi phận gái cũng là chồng
Ghét bỏ nhau chi hỡi Nguyệt ông
Rồng tắm ao tù từng phận tủi
Mưa gieo xuống giếng uổng lòng mong
Xót thân hoa nở song lầm cát
Thẹn mặt trần ai đứng giữa vòng
Âu hẳn tiền nhân sao đấy tá
Thôi đành một kiếp thế cho xong
ƯƠNG ÔI PHẬN GÁI
Thương thay phận gái cũng là người
Nỡ bỏ xuân xanh quá nửa đời
Ông Nguyệt nỡ nào trêu quải mãi
Chị Hằng khéo nhẽ éo le thôi
Hoa còn phong nhụy ong ve vãy
Gió đã phai hương bướm tả tơi
Quá ngán thợ trời ghê gớm bấy
Xuân xanh được mấy chút thương ôi
THÂN PHẬN NGƯỜI ĐÀN BÀ
Hỡi chị em ơi có biết không
Một bên con khóc một bên chồng.
Bố cu lổm ngồm bò trên bụng,
Thằng bé hu hơ khóc dưới hông.
Tất cả những là thu với vén
Vội vàng nào những bống cùng bông.
Chồng con cái nợ là như thế,
Hỡi chị em ơi có biết không?
VÔ ÂM NỮ
Mười hai bà mụ ghét gì nhau
Đem cái xuân tình cắm ở đâu
Rúc rích thây cha con chuột nhắt
Vo ve mặc mẹ cái ong bầu
Nào ai biết được vông hay chóc
Nọ kẻ chia ra cuống mấy đầu
Thôi thế thời thôi thôi cũng rảnh
Trăm năm càng khỏi tiếng làm dâu
THU VŨ
(Mưa Thu)
Thiên cách vân âm thảm bất minh,
Tiêu tiêu thu vũ lạc nhàn đình.
Đoản trường khô thụ chi đầu lệ,
Thư cấp hoàng tiêu diệp thượng thanh.
Ngâm đoạn đê mê thiên lý mộng,
Sầu khiên liêu lạc ngũ canh tình.
Thâm khuê tối khổ như hoa diện,
Nhất phiến sầu dung hoạ bất thành.
Bản dịch:
Trời cách mây mù thảm chả xanh,
Mưa thu sân vắng giọt buồn tanh.
Đầu cành cây héo châu dài vắn,
Trên lá tiêu vàng tiếng chậm thanh.
Hát dứt đê mê mơ vạn dặm,
Sầu giăng quạnh quẽ nỗi năm canh.
Khuê sâu rất khổ mày hoa ấy,
Vẻ mặt buồn thương vẽ chẳng thành.
ĐÁNH CỜ
Chàng với thiếp đêm khuya trằn trọc,
Ðốt đèn lên đánh cuộc cờ người.
Hẹn rằng đấu trí mà chơi,
Cấm ngoại thuỷ không ai được biết.
Nào tướng sĩ dàn ra cho hết,
Ðể đôi ta quyết liệt một phen.
Quân thiếp trắng, quân chàng đen,
Hai quân ấy chơi nhau đà đã lửa.
Thoạt mới vào chàng liền nhảy ngựa,
Thiếp vội vàng vén phứa tịnh lên.
Hai xe hà, chàng gác hai bên,
Thiếp thấy bí, thiếp liền ghểnh sĩ.
Chàng lừa thiếp đương khi bất ý,
Ðem tốt đầu dú dí vô cung,
Thiếp đang mắc nước xe lồng,
Nước pháo đã nổ đùng ra chiếu.
Chàng bảo chịu, thiếp rằng chẳng chịu,
Thua thì thua quyết níu lấy con.
Khi vui nước nước non non,
Khi buồn lại giở bàn son quân ngà.
Vừa rồi là những bài thơ hay nhất của Hồ Xuân Hương mà tôi muốn gửi đến các bạn, hi vọng rằng các bạn cũng sẽ thích và yêu mến những áng thơ mang đầy tâm trạng và ý nghĩa này.