Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn của Phan Châu Trinh để thấy được vẻ đẹp cao quý của người chiến sĩ yêu nước.Những người tù dù bị tra tấn dã man nhưng vẫn một lòng hướng về đất nước nhân dân. Trong bài viết dưới đây, hãy cùng PUD tìm hiểu và phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn.
Giới thiệu về Phan Châu Trinh
Phan Châu Trinh (sinh năm 1872 – mất năm 1926) là người con của làng Tây Lộc, huyện Hà Đông thuộc tỉnh Quảng Nam. Ông là người học rộng, tài cao, đỗ Phó bảng vào năm 1901 và được bổ dụng làm quan. Tuy nhiên sau đó ông lại từ bỏ để dành tâm huyết theo đuổi lí tưởng cao đẹp của mình: bắt đầu cống hiến cho sự nghiệp cứu nước.
Không chỉ là một nhà nhiệt thành cách mạng, Phan Châu Trinh còn nổi tiếng là người giỏi biện luận và có tài văn chương. Đặc biệt, ông đã dùng chính những sáng tác của mình để thể hiện tinh thần yêu nước và tư tưởng dân chủ mà ông nhận thức được. Nhờ vậy, những sáng tác chính luận và những tác phẩm thơ ca của Phan Châu Trinh đã góp phần làm thức tỉnh nhân tâm và làm dấy lên phong trào yêu nước trong ba mươi năm đầu của thế kỉ XX.
Các tác phẩm gắn liền với tên tuổi Phan Châu Trinh có thể kể đến là “Tây Hồ thi tập”, “Tỉnh quốc hồn ca”, “Xăng-tê thi tập”, “Giai nhân kì ngộ”,… Những sáng tác của Phan Châu Trinh đều có điểm chung là mang một giọng điệu đanh thép, hùng hồn nhưng cũng rất trữ tình, tha thiết.
Tìm hiểu bài thơ Đập đá ở Côn Lôn
Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn của Phan Châu Trinh cần tìm hiểu về hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. “Đập đá ở Côn Lôn” là bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Tác phẩm ra đời trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt, đó là trong khoảng thời gian ông bị thực dân Pháp bắt và đày ra Côn Đảo vào tháng 4 năm 1908. Nguyên nhân của sự việc trên là do Pháp đã khép Phan Châu Trinh vào tội xúi giục nhân dân nổi loạn trong phong trào chống thuế ở Trung Kì.
Sống những tháng ngày ở Côn Đảo và phải lao động khổ sai cùng với các tù nhân khác đã khiến cho Phan Châu Trinh có thể viết nên những dòng thơ để bày tỏ ý chí và khí phách của những con người mưu đồ nghiệp lớn dù phải sống trong nghịch cảnh, khó khăn.
Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn của Phan Châu Trinh
Chân dung người chiến sĩ hiện lên qua tư thế đầy ngạo nghễ, qua ý chí vững bền kiên định, qua tinh thần không ngại gian khó khi phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn.
Tư thế ngạo nghễ của người tù ở Côn Lôn
Hai câu thơ mở đầu tác phẩm của Phan Châu Trinh đã giúp ông thể hiện được tư thế của người tù ở Côn Lôn đầy ngạo nghễ:
“Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,
Lừng lẫy làm cho lở núi non.”
Hình ảnh người làm trai xuất hiện giữa đất Côn Lôn mà tác giả nhắc tới đã nói lên quan niệm nhân sinh truyền thống về cái “chí làm trai” của con người. Khi phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn của Phan Châu Trinh, ta thấy đó là một quan niệm đúng đắn trong cái nhìn của người xưa khi muốn khẳng định tầm quan trọng của những khát khao, lí tưởng đối với con người khi sống giữa đất trời nhân thế, đặc biệt là người nam nhi.
Quan niệm đó đã từng được Nguyễn Công Trứ đề cập trong thơ ông: “Chí làm trai Nam, Bắc, Tây, Đông – Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể” hay Phan Bội Châu cũng đã lên tiếng: “Đã sinh làm trai thì cũng phải khác đời”. Trong câu thơ của Phan Châu Trinh, tác giả cũng sử dụng quan niệm trên để nêu cao tinh thần của người trai đầu đội trời, chân đạp đất khi “đứng giữa đất Côn Lôn”.
Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn, ta cũng nhận thấy rất rõ, mặc dù phải sinh sống trong những tháng ngày bị hành hạ, tra tấn nhưng ta khó có thể tìm thấy trong câu thơ sự kiệt sức, uể oải mà chỉ thấy ngời lên tinh thần “lừng lẫy” và chí ý sắt thép đến độ có thể làm cho“lở núi non”.
Sức mạnh phi thường của người chí sĩ yêu nước
Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn của Phan Châu Trinh, ta thấy những câu thơ tiếp theo càng làm cho tầm vóc “lừng lẫy” của người chí sĩ thêm nổi bật hơn cả vì đã làm toát lên ở họ một sức mạnh phi thường:
“Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn”
Sự phi thường đó được thể hiện trong từng động tác của người tù khi “xách búa”, “ra tay” mà “đánh tan năm bảy đống”, “đập bể mấy trăm hòn”. Ý thơ nói lên cảnh lao động hết sức khắc nghiệt, cần lao của người chiến sĩ nhưng chính những khổ cực mà họ trải qua lại làm bật lên ở họ hình ảnh đầy ngạo nghễ và hiên ngang của người chí sĩ.
Cách họ làm việc qua những động từ mạnh như “đánh tan”, “đập bể” đã cho thấy sự chủ động, quyết liệt trong hành động chứ không còn là những công việc mang tính bị cưỡng ép, đốc thúc của người tù. Câu thơ có sử dụng bút pháp khoa trương và mang mục đích thể hiện sự lay trời chuyển đất trong lí tưởng của con người dốc lòng vì sự nghiệp lớn lao mà xem thường những gian nan khó nhọc.
Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn đã cho thấy chính mục đích đó đã mang lại sự thành công trong việc khắc họa bức tượng đài uy nghi, vững chãi của tấm lòng yêu nước sắt son và ý chí cách mạng kiên cường. Có thể thấy, thông qua lớp nghĩa tả thực về công việc khai thác, đập đá khổ sai, nặng nề của người tù Côn Đảo trong hoàn cảnh nắng, gió và đòn roi, tác giả đã làm cho vẻ đẹp lớn lao về tinh thần và khí chất của người chiến sĩ được tỏa sáng. Chính giọng thơ đanh thép, hùng hồn đã tô đậm vẻ đẹp hùng tráng của người chí sĩ đứng giữa biển rộng non cao trong tư thế hiên ngang, sừng sững.
Chí khí vững bền qua gian khó của người tù
“Tháng ngày bao quản thân sành sỏi
Mưa nắng càng bền dạ sắt son”
Trong câu thơ thứ năm và thứ sáu này, tác giả đã trực tiếp bày tỏ suy nghĩ và cảm xúc của mình về những gian khổ, thử thách. Những gian khổ, thử thách đằng đẵng của biết bao “tháng ngày” cộng thêm sự khắc nghiệt của “mưa nắng” được đặt trong sự tương quan với sức vóc bền bỉ “thân sành sỏi” và ý chí bất khuất “dạ sắt son” đã tạo nên nghệ thuật đối lập trong câu thơ.
Chỉ với cặp từ “tháng ngày”, “mưa nắng” thôi mà bao nhiêu nhọc nhằn, đắng cay mà những người chiến sĩ phải nếm trải như hiển hiện mồn một trên trang viết. Ấy vậy mà những đau khổ, đày ải ấy chỉ là cái nền để làm hiện diện nơi họ những vẻ đẹp lớn lao. Chính nghệ thuật đối lập trong việc sử dụng từ làm bật lên ý thức kiên cường nơi người chiến sĩ: dù lao động khổ sai trong điều kiện khó khăn về thời tiết, dù bị hành hạ không biết đến tháng ngày nào mới có thể được tự do nhưng tinh thần kiên trung và tấm lòng son sắt với lí tưởng đã theo đuổi thì luôn bất biến, vững bền.
Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn, ta nhận thấy gian lao, mệt mỏi, họ có “bao quản” hay nề hà. Đối với người cách mạng chân chính, gian lao và mệt mỏi ấy không còn là thử thách mà đã trở thành điều kiện tôi rèn ý chí để họ “càng bền” lòng theo đuổi lí tưởng của mình. Đây cũng chính là lời dặn lòng đầy quyết tâm của người ấp ủ sự nghiệp lớn.
Tinh thần lạc quan, dũng khí hiên ngang sắt đá
Tất cả những vẻ đẹp về ý chí, sự quyết tâm và lòng yêu nước của người chí sĩ dường như đã ngời sáng rực rỡ qua những câu thơ nói trên. Đến những dòng thơ cuối thì dũng khí hiên ngang sắt đá và tinh thần lạc quan cách mạng nơi họ lại được khẳng định một cách mạnh mẽ:
“Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể việc con con!”
Câu thơ nêu lên thái độ xem thường những gian nan khó nhọc mà người chiến sĩ phải đối mặt ở Côn Lôn khi xem đó chỉ là những “việc con con”. Với cương vị là “những kẻ vá trời” đầy hoài bão, nhiệt huyết thì việc có những lúc “lỡ bước” hay phải vượt qua những mệt mỏi, thử thách vốn là điều tất yếu để có thể đến với thành công, thắng lợi. Giọng thơ trong những câu cuối khi chuyển tải những nội dung ấy bỗng trở nên cương quyết, rắn rỏi để rồi càng tô đậm sự ngang tàng, lẫm liệt của hình tượng người anh hùng cách mạng.
Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn, người đọc nhận thấy khi đã chọn con đường cách mạng để theo đuổi suốt đời, có lẽ bản thân người chiến sĩ có thể đã hình dung trước được những gian nan, thử thách mà họ phải đương đầu. Thế nên nếu mỗi lần khó khăn, mệt mỏi, họ lại yếu lòng, gục ngã thì tất nhiên sẽ không đủ sức bền để chinh phục được con đường đầy chông gai, thách thức này.
Vì vậy, không phải ai khác, chính bản thân họ phải tự vực dậy tinh thần của mình dù gặp phải bất cứ chuyện gì. Và trong hoàn cảnh bắt bớ, tù đày, chèn ép, tra tấn, lòng tin vững chắc về lí tưởng lấp biển dời non, sự nghiệp cứu nước mà mình đã “dấn thân” chính là điểm tựa để người chiến sĩ có thể vượt lên trên tất cả và hi sinh vì nó.
Giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm
Giá trị nội dung
Về nội dung, bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” đã thể hiện vẻ đẹp hào hùng, tư thế hiên ngang trong hình tượng nhà nho yêu nước, đồng thời cũng là nhà cách mạng trong những năm đầu của thế kỉ XX. Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn, ta thấy với phong thái ung dung, thái độ coi thường gian khó và hiểm nguy, ý thức vượt lên hoàn cảnh lao tù cùng với niềm lạc quan tin tưởng vào một tương lai tươi sáng của sự nghiệp cứu nước, nhân vật trữ tình đã trở thành một người anh hùng đầy khẩu khí, nghĩa khí và chí khí.
Giá trị nghệ thuật
Xét về nghệ thuật, nhà thơ đã xây dựng thành công hình tượng người anh hùng cách mạng với rất nhiều những phẩm chất, vẻ đẹp đáng quý. Hình tượng người anh hùng mang vẻ đẹp lẫm liệt, ngang tàng đó lại được tạo dựng thông qua bút pháp lãng mạn, giọng điệu hào hùng và trên phông nền của hoàn cảnh lao động khổ sai nên đã tạo được những ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.
Bài văn mẫu: Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn của Phan Châu Trinh
Những năm đầu thế kỉ XX, cùng với Phan Bội Châu, tên tuổi Phan Châu Trinh trở thành biểu tượng của tinh thần yêu nước, đồng bào cả nước đều ngưỡng mộ ông. Hình ảnh Phan Tây Hồ, nhà chí sĩ giàu lòng yêu nước, khảng khái sông mãi với non sông, đất nước và trong tâm tưởng của nhân dân Việt Nam. Đọc bài thơ Đập đá ở Côn Lôn ta càng hiểu thêm phẩm chất cách mạng sáng ngời của Cụ:
Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,
Lừng lẫy làm cho lở núi non.
Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng chi sờn dụ sắt son.
Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể việc con con!
Năm 1908 Phan Châu Trinh bị bắt, triều đình Huế đã khép tội cầm đầu phong trào chống thuế ở Trung Kì và đày đi Côn Lôn. Côn Lôn! Cái địa danh gợi lên trong trí tưởng tượng của những người Việt Nam một sự chết chóc, rùng rợn. Giữa bốn bề biển cả mênh mông, cái “địa ngục trần gian” này là nơi giam cầm, đoạ đày đã man những người yêu nước và đã có biết bao người con ưu tú của dân tộc đã vĩnh viễn nằm lại nơi đây. Bị đày đến địa ngục, Phan tự xác định:
Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn
Trong tư thế “đứng” ấy của nhà chí sĩ cách mạng vừa biểu thị một thái độ ngang tàng bất khuất vừa chủ động tự tin – Giữa trời biển bao la, trước cảnh ngục là tàn bạo của kẻ thù, dáng đứng của Phan thật vững vàng như một tượng đài hiên ngang. Ông không còn là một người tù bị đi đày nữa mà là một con người của tự do. Chí “làm trai” của người quân tử có phen được bộc lộ và thử thách.
Đúng là một thử thách rất khắc nghiệt, người tù ngày ngày phải lao động khổ sai. Việc đập đá rất cực nhọc đối với Phan, một nhà nho chân yếu tay mềm chỉ quen với bút nghiên, đèn sách không quen với công việc nặng nhọc. Bị cực hình về thể xác nhưng tinh thần vẫn vững vàng:
Lừng lẫy làm cho lở núi non.
Đây không còn là chuyện người tù đập đá nữa mà còn bao hàm một ý nghĩ rộng lớn về chí khí hào hùng lẫm liệt của kẻ “làm trai” có chí lớn quyết xoay chuyển lại thời cuộc, nước non.
Xạch búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mây trăm hòn.
“Xách búa”, “ra tay” thể hiện tư thế chủ động; “đánh tan”, “đập bể” động từ chỉ hành động dứt khoát, mạnh mẽ, khoáng đạt. Nhà chí sĩ đang hình dung như dồn tất cả nghị lực và lòng căm thù vào cánh tay để “đập bể”, “đánh tan” cái dinh luỹ của chế độ thực dân phong kiến thối nát.
Ba năm trời đằng đẵng Phan làm thân tù tội, chịu đựng biết bao đoạ đày “nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại” (một ngày ở tù, nghìn năm ở ngoài). Nhưng thời gian (tháng ngày), gian nan (mưa nắng) cũng là hoàn cảnh để rèn luyện khí tiết người cách mạng.
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng chi sờn dạ sắt son.
“Lửa thử vàng, gian nan thử sức”, nhà tù đế quốc là trường hợp để tôi rèn thử thách. Phan Bội Châu trong nhà ngục Quảng Đông “vẫn là hào kiệt vẫn phong lưu”, Hồ Chí Minh trong nhà lao Tưởng Giới Thạch vẫn Tự khuyên mình
Nghĩ mình trong bước gian truân
Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng.
(Nhật kí trong tù)
Những thử thách khốc liệt của lao lù làm cho Phan Châu Trinh thêm rắn rỏi, dạn dày, lòng dạ càng thêm sáng ngời “sắt son” một niềm tin mãnh liệt ở sự nghiệp cứu dấn, cứu nước.
Bài thơ kết thúc bằng một lời khẳng định mạnh mẽ đầy tự tin:
Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể việc con con!
Phan tự ví mình là kẻ “vá trời”, lấp biển, mưu đồ sự nghiệp lớn lao. Người anh hùng có chí lớn, tin ở tài năng và nghị lực của mình nhưng chẳng may bị sa cơ, “lỡ bước”! Bị “lỡ bước” trên con đường tranh đấu đầy chông gai hiểm nạn là lẽ tất yếu, thường tình đối với ông. Người cách mạng sẵn sàng chấp nhận tù đày, xiềng gông kể cả việc phải hi sinh tính mạng. Nói chuyện tù tội, chết chóc mà lời thơ cứ tự nhiên, nhẹ nhàng:
Gian nan chi kể việc con con!
Ông xem đó chỉ là việc “con con”, không đáng kể, thái độ tư thế của nhà chí sĩ đĩnh đạc, ung dung lạ thường, ở đây ta lại bắt gặp sự đồng điệu rất lí thú trong tư thế của hai chí sĩ họ Phan:
Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiểm sự gì đâu.
(Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác – Phan Bội Châu)
Kẻ thù dùng bạo lực, cực hình đày đọa để tiêu diệt lòng yêu nước, nhưng chúng đã lầm, sức mạnh tinh thần của những người yêu nước vô địch.
Bài thơ Đập đá ở Côn Lôn có giọng điệu hào hùng, sảng khoái của con người coi thường gian nguy, xem khinh kẻ địch. Đó là tư thế của những người chiến thắng, “đứng trên đầu thù”. Phan Châu Trinh nhà yêu nước vĩ đại, người chiến sĩ bất khuất hiên ngang đã đi vào lịch sử của dân tộc.
Chỉ với tám câu thơ, Phan Châu Trinh đã tái hiện trước mắt người đọc bức chân dung tuyệt đẹp của một người chiến sĩ nguyện sống và phấn đấu vì lí tưởng cao cả. Vì lí tưởng, vì nghiệp lớn, họ đã chấp nhận hi sinh tình riêng và quan trọng hơn là khi phải đối diện với cảnh tù đày, gian nguy, họ vẫn luôn trong tư thế ngẩng cao đầu và luôn vững tin vào sự nghiệp cứu nước mà bản thân đã chọn. Hy vọng bài viết trên đây đã mang đến cho bạn những kiến thức hữu ích về chủ đề phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn. Chúc bạn luôn học tốt!