Phân tích nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao để thấy được số phận con người trong xã hội cũ. Một cuộc đời cô đơn bất hạnh để rồi chết trong đau đớn của lão nông nghèo khổ đã khiến lay động biết bao nỗi xót thương. Cùng PUD tìm hiểu, cảm nhận và phân tích nhân vật lão Hạc qua bài viết dưới đây nhé.

Phân tích nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao

Một người nông dân nghèo khổ bất hạnh

Lão Hạc của Nam Cao là người nông dân bần hàn và nghèo khổ với tài sản chỉ vỏn vẹn là một túp lều, ba sào vườn và một con chó vàng. Vốn liếng của lão nông đó chỉ có bấy nhiêu thôi, ấy vậy mà, lão phải sống cô đơn và bất hạnh. Vợ của lão Hạc mất đã lâu, cảnh gà trống nuôi con bao năm. Lão Hạc lần hồi đi làm thuê kiếm sống qua ngày để nuôi đứa con trai của mình.

Đứa con trai duy nhất của lão chỉ vì không có trăm bạc để lấy vợ, cảm thấy tủi nhục phẫn chí quyết định đi đồn điền cao su biền biệt đã mấy năm trời. Phân tích nhân vật lão Hạc, ta thấy tuổi già của lão sống thật cô quạnh, nỗi buồn ngày một chồng chất thêm. Chỉ có con chó vàng là người bạn tri kỉ duy nhất với lão, giúp lão vơi sầu mà sống tiếp những ngày cơ cực buồn tủi.

Cuộc sống cứ thế ngày qua ngày, cho đến một hôm lão Hạc bị ốm một trận nặng kéo dài những 2 tháng 18 ngày. Trong quãng thời gian ốm yếu mệt mỏi ấy, lão Hạc cô độc, không có bàn tay chăm sóc của người thân. Sự săn sóc, quan tâm, một bát cháo, một chén thuốc… những thứ ấy với lão trong hoàn cảnh ốm yếu cũng thật là xa xỉ. Phân tích nhân vật lão Hạc, người đọc không khỏi ngậm ngùi cho số kiếp đáng thương ấy.

Không những thế, một trận bão khủng khiếp lại kéo đến, cây trái hoa màu bị phá sạch, làng nghệ, đàn bà con gái hết việc tranh đi làm thuê và giành hết mọi việc. Sau trận ốm kéo dài, lão Hạc yếu hẳn đi, không ai thuê lão nữa. Hoa màu mất vì trận bão, giá gạo tăng mà lão lại thất nghiệp. Phân tích nhân vật lão Hạc, một nỗi nghẹn ngào trào dâng trong tâm hồn mỗi chúng ta.

Túp lều nghèo có lão và cậu Vàng, mỗi ngày ăn hết ba hào gạo mà vẫn đói quay quắt “đói deo đói dắt”. Chỉ vì trận ốm ấy mà lão đã tiêu hết số tiền bán được từ hoa lợi trong vườn đã dành dụm được bấy lâu. Cuộc sống vốn đã nghèo khổ lại ngày một thêm túng quẫn. Cái đói rình rập ám ảnh lão Hạc, cái ăn qua ngày khiến lão khổ sở, và cuộc sống của lão cũng day dứt trong lòng mỗi người khi phân tích nhân vật lão Hạc. Lão nông bần hàn bất hạnh ấy biết phải làm gì?.

Lão Hạc chỉ còn biết bán cậu Vàng, lão đã nghĩ đến điều ấy mà đau lòng quặn thắt. Cậu Vàng chính là tri kỷ với lão trong cuộc sống cô quạnh này. Ấy vậy mà, miếng cơm manh áo khiến lão phải đứt ruột với suy nghĩ bán đi cậu Vàng. “Bỏ rẻ cũng mất hào rưỡi hai hào” đó là số tiền mà cậu Vàng ăn mỗi ngày. Cậu Vàng ăn khỏe lại khiến lão thêm áp lực với cuộc sống túng quẫn này. Phân tích nhân vật lão Hạc, đến chi tiết này, người đọc cũng không khỏi nghĩ suy với câu nói của ông giáo khi nghe lão nói về ý định bán con chó: “Nhưng đời người ta không chỉ khổ một lần. Lão Hạc ơi, ta có quyền giữ cho ta một tí gì đâu?…”

Yêu cậu Vàng đến vậy, nhưng lão Hạc biết lấy tiền đâu mà nuôi được? Lão nông ấy đành bán cậu Vàng cho thằng Xiên, thằng Mục. Để rồi khi bán đi cậu Vàng, cuộc sống với lão như không còn chút gì ý nghĩa, lão bị đẩy xuống địa ngục, tâm hồn cằn cỗi, trái tim đau đớn uất nghẹn bởi lão thấy mình là kẻ “tệ lắm”, đã già mà còn “đánh lừa một con chó”. Cuộc sống sau khi mất đi cậu Vàng với lão cũng vẫn như vậy khi mà túng bấn, nghèo đói, cô đơn bủa vây mỗi ngày. Phân tích nhân vật lão Hạc, ta thấy đau đớn thay hoàn cảnh nghiệt ngã đã dìm người cố nông tới đường cùng.

Lão nông ấy tiếp tục cuộc sống lay lắt với củ khoai, củ chuối rồi củ ráy, lão ăn sung luộc rau má hay bữa trai ốc cầm cự. Cuộc sống khốn khó đến vậy, thế nhưng người nông dân ấy lại từ chối mọi sự giúp đỡ của mọi người, lão chối từ khi ông giáo muốn giúp đỡ một cách “gần như là hách dịch”. Lão mất đi cậu Vàng, rồi cùng xa dần với ông giáo – điểm tựa tinh thần bấy lâu.

Cuộc sống giờ đây với người nông dân ấy chỉ là một màu xám xịt vô nghĩa. Lúc này, lão không còn bất cứ “nơi dựa tinh thần” nào, lão quạnh hiu trong cuộc sống, lão đơn độc trong chính tâm hồn của mình. Để rồi, người cố nông ấy đã kết thúc cuộc đời bằng chính bả chó bằng cách tự tử. Khi sống đã khốn khổ, mà khi chết lão cũng thê thảm đau đớn. Nhà văn Nam Cao đã đặc tả cái chết của lão Hạc như một sự ám ảnh day dứt với “đầu tóc rũ rượi, mắt long sòng sọc, tru tréo, rồi bọt mép sùi ra…” Vật vã đến hơn hai giờ đồng hồ, cái chết mới buông bỏ sự dằn vặt với lão. Người nông dân ấy ra đi với sự dữ dội cả về tinh thần lẫn thể xác. Phân tích nhân vật lão Hạc, ta đau đớn và thương xót biết bao nhiêu cho thân phận những người nông dân cùng cực trong xã hội xưa.

Số kiếp một con người, số phận của lão nông nghèo ấy thật đáng thương cảm biết bao. Hiện thực hóa đến từng chi tiết, nhưng ẩn sâu trong từng câu chữ ấy chính là chủ nghĩa nhân đạo thống thiết mà nhà văn Nam Cao đã gửi đến bạn đọc. Lão Hạc thì bần cùng bế tắc phải ăn bả chó để kết liễu cuộc đời trong sự đau đớn, chí Phèo tự sát bằng mũi dao, Lang Rận thì thắt cổ chết… Đó là những sự quyên sinh tột cùng của nước mắt và sự chua xót. Phân tích nhân vật lão Hạc, ta không thể nào quên được câu nói mà người nông dân ấy đã hỏi ông giáo: “nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng?” Câu hỏi ấy cho thấy nỗi khổ đau tột cùng của một kiếp người, đồng thời cũng gieo rắc vào người đọc biết báo ám ảnh.

Một con người nhân hậu, hiền lành và chất phác

Phân tích nhân vật lão Hạc ta thấy người nông ấy vô cùng yêu đứa con của mình. “Lão thương con lắm…” khi biết đứa con trai không đủ tiền để cưới vợ. Rồi khi đứa con quyết định đi đồn điền cao su thì lão đau đớn chỉ biết khóc.Lão nông ấy ngần ngật nước khi thổ lộ “Thẻ của nó, người ta giữ. Hình của nó, người ta đã chụp rồi. Nó là người của người ta rồi, chứ đâu còn là con tôi?”.

Năm sáu năm bằn bặt con trai lão đi chưa trở về, để mình lão cô độc trong túp lều nghèo khó. Cuộc sống một mình vốn đã túng quẫn, ấy vậy mà, bao nhiêu hoa lợi cây trái trong vườn, bán được bao nhiêu lão đều dành cho cậu con trai nơi xa, chỉ với mong mỏi “khi con trở về có chút vốn mà làm ăn”. Đói khổ, nghèo túng đến như nào thì lão Hạc vẫn quyết giữ lại 3 sào vườn cho con. Lão tự nói “Mảnh vườn là của con ta… Của mẹ nó tậu thì nó hưởng.” Lão Hạc thà chết chứ nhất định không chịu bán đi một sào. Tất cả đều vì con, đó là sự hi sinh thầm lặng của một người cha luôn nghĩ cho con của mình. Phẩm chất nhân hậu, tình phụ tử cao cả thiêng liêng ở lão Hạc thật đáng ngưỡng mộ biết bao.

Phân tích nhân vật lão Hạc, ta thấy sự hiền lành và nhân hậu ấy còn được thể hiện qua tình cảm sâu sắc với cậu Vàng. Lão Hạc yêu mến chú cho của mình và đặt tên là “cậu Vàng”. Lão nông nhân hậu ấy còn cho ăn cơm trong bát sứ như nhà giàu, rồi bắt rận đứa nó ra cầu ao tắm… Lão Hạc ăn gì cũng không quên chia cho cậu Vàng thưởng thức. Khi phân tích nhân vật lão Hạc, những chi tiết mà nhà văn Nam Cao đã miêu tả đã chứng minh một cách rõ ràng và cụ thể về tấm lòng đôn hậu của lão.

Có thể thấy, lão Hạc đã chăm sóc, nuôi nấng cậu Vàng như con cháu của mình, đồng thời coi nó như niềm vui, như điểm tựa tinh thần… Lão nông ấy ăn gì cũng chia cho cậu Vàng ăn. Lão ngồi uống rượu còn cậu Vàng thì ngồi dưới chân, lão nhắm một miếng lại gắp cho cậu Vàng một miếng như người ta gắp thức ăn cho con trẻ. “Cậu Vàng ngoan lắm! Ông không cho giết! Ông để cậu Vàng ông nuôi” – Lão tâm sự với cậu Vàng một cách thân tình trìu mến như với một người thân yêu.

Phân tích nhân vật lão Hạc qua đoạn trích này, ta thấy cậu Vàng như một phần cuộc đời của lão vậy. Chính vì vậy, sau khi bị hoàn cảnh túng quẫn xô đẩy phải bán cậu Vàng thì người nông dân ấy như rơi vào tấn bi kịch của cuộc đời, lão như rơi xuống đáy của bi kịch để cuối cùng phải kết thúc bằng cái chết đau đớn thương tâm.

Một người nông dân nghèo khổ nhưng trong sạch và giàu lòng tự trọng

Phân tích nhân vật lão Hạc, ta thấy, dù trong hoàn cảnh phải ăn củ chuối củ ráy nhưng vẫn giàu lòng tự trọng mà chối từ ông giáo khi được mời uống trà ăn khoai. “Ông giáo để cho khi khác” – lão cười đôn hậu. Biết cuộc sống khốn khó của lão Hạc, ông giáo ngấm ngầm muốn giúp đỡ nhưng đều nhận lại sự chối từ một cách đầy hách dịch. Cuộc sống xô đẩy khiến lão bất đắc dĩ phải bán đi cậu Vàng. Để rồi bán xong rồi, lương tâm dằn vặt đau đớn, lão khóc ngần ngật nước.

Lão nông ấy dù nghèo khổ nhưng vẫn giữ phẩm chất trong sạch, không nhận bất cứ sự ban ơn giúp đỡ từ người khác. Lão cùng giàu lòng tự trọng, để đến phút cuối cùng, trước khi quyết định rời khỏi cuộc đời này, lão đã gửi tiền cho ông giáo để lo liệu… Lão Hạc giữ nguyên vẹn ba sào vườn cho con trai như một lời nguyền đinh ninh không thể thay đổi. Không những thế, trước khi chết, lão Hạc đã gửi lại ông giáo mảnh vườn và 30 đồng bạc lẻ để mà “lỡ có chết… gọi là của lão có tí chút”. Lão Hạc thật giàu lòng tự trọng, lão không muốn vì mình mà làm phiền đến hàng xóm. Đọc đến đọc này, khi phân tích nhân vật lão Hạc, ta không khỏi nghẹn ngào…

Nhà văn Nam Cao đã vô cùng sâu sắc và tinh tế khi đã đưa nhân vật Binh Tư vào phần cuối của câu chuyện để tạo nên một sự đối sánh độc đáo, qua đó nhấn mạnh lên sự trong sạch và tự trọng của lão Hạc. Đó là một người nông dân đáng trân trọng và yêu mến biết bao.

Có thể thấy, cuộc đời của lão Hạc là ví dụ điển hình cho thân phận của biết bao người nông dân trong xã hội cũ trước Cách mạng. Một cuộc đời đầy đau khổ và bất hạnh, cô đơn và đau đớn. Sống thì lặng lẽ, một mình trong âm thầm và nghèo đói. chết thì quằn quại. Dù cuộc sống có vùi dập đẩy lão Hạc đến con đường cùng thì ở lão cố nông ấy vẫn ánh lên biết bao nét đẹp đáng trân trọng. Đó là con người nhân hậu, hiền lành và chất phác, một lão nông trong sạch và giàu lòng tự trọng… Nhà văn Nam Cao như tạc lên hình tượng về một người nông dân điển hình trong những năm tháng tăm tối ở xã hội xưa. Đồng thời, nhà văn cũng bày tỏ sự thương cảm cũng như khéo léo viết lên những trang văn giàu giá trị nhân đạo.

Ra đời năm 1943, hơn 70 năm đã qua đi, nhưng hình tượng về lão Hạc vẫn trường tồn theo thời gian, bỏ qua những bụi mờ của năm tháng để mãi ngời sáng về một người nông dân cao đẹp.

Bài văn mẫu: Phân tích nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao

Nam Cao là một nhà văn lớn của người nông dân Việt Nam, đặc biệt là người nông dân trước Cách mạng tháng Tám 1945. Ông vẫn cảm nhận được những vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn của họ trước bờ vực của cái đói, cái nghèo. Truyện ngắn “Lão Hạc” của nhà văn là một tác phẩm như thế. Nhân vật chính của tác phẩm – nhân vật lão Hạc – dù có một hoàn cảnh bất hạnh, đau đớn nhưng lão vẫn giữ được tình yêu thương đối với những người thân yêu và đặc biệt là một lòng tự trọng cao cả. Qua nhân vật này, nhà văn đã thể hiện tư tưởng nhân đạo tiến bộ và sâu sắc.

Lão Hạc cũng như bao người nông dân Việt Nam khác phải đối mặt với cái nghèo, cái đói của cuộc sống cơ cực, tăm tối trước Cách mạng. Nhưng lão còn có những hoàn cảnh riêng vô cùng bất hạnh. Vợ lão chết sớm. Con trai lão phẫn chí vì nghèo không lấy được người mình yêu nên bỏ đi đồn điền cao su. Lão chỉ có con Vàng là kỷ vật của con để làm bạn. Vậy là cùng một lúc lão phải đối mặt với bao đau khổ: cái đói, sự cô đơn và tuổi già với ôm đau, bệnh tật. Rồi cuộc đời cực khổ, dồn lão đến mức hết đường sinh sống. Lão phải dứt ruột bán đi con chó Vàng mà lão yêu thương nhất. Lão bán con chó trong niềm khổ đau tột cùng: “Mặt co rúm lại, những nếp nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra, cái đầu ngoẹo về một bên, cái miệng móm mém mếu như con nít”, “lão hu hu khóc”,…

Ban đầu là “luôn mấy hôm lão chỉ ăn khoai”, “khoai cũng hết, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa trai, bữa ốc”. Rồi đến mức chẳng còn gì để ăn, để sống. Rồi điều gì đến sẽ phải đến. Không còn đường sinh sống, lão Hạc chỉ còn đường chết. Và đó là một cái chết thật đau đớn, thật tủi nhục: chết “nhờ” ăn bả chó tự tử…! Cái chết của

lão dữ dội vô cùng: lão sùi bọt mép, lão co giật phải hai người đàn ông lực lưỡng đè lên… Cái chết ấy khiến người đọc liên tưởng đến cái chết của con chó Vàng để rồi rùng mình nhận ra rằng cái chết của lão đâu khác gì cái chết của một con chó.

Đói nghèo như thế, khổ đau như thế nhưng lão không vì vậy mà tha hóa về nhân phẩm. Binh Tư đã tưởng lão xin bả chó để ăn trộm. Ông giáo cũng nghi ngờ lão. Nhưng không, Lão Hạc vẫn giữ được vẹn nguyên tâm hồn dào dạt yêu thương đáng quý, đáng trọng của người nông dân và cả sự tự trọng cao đẹp của mình.

Lão yêu thương con rất mực. Văn học Việt Nam đã có những “Cha con nghĩa nặng” của Hồ Biểu Chánh, “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng,… ngợi ca tình phụ tử. Và trong đó cũng cần nhắc đến “Lão Hạc” của Nam Cao. Vì thương con, lão chấp nhận đối mặt với cô đơn, với tuổi già để con ra đi cho thỏa chí. Con đi rồi, lão dồn cả yêu thương vào con chó Vàng. Đừng nghĩ đơn giản rằng lão cưng chiều “cậu” Vàng vì đó là con chó khôn, chó đẹp. Điều quan trọng nhất khiến lão yêu quý con Vàng đến mức chia với nó từng cái ăn, cho nó ăn vào bát như người, rồi đến lúc nó chết lão quằn quại, đau đớn,… là bởi con chó là kỉ vật duy nhất mà con trai lão để lại. Nhìn con chó, lão tưởng như được thấy con mình.

Không chỉ vậy, lão thương con đến độ chấp nhận cái đói, rồi cả cái chết chứ không chịu bán đi mảnh vườn của con. Nếu lão bán mảnh vườn, ắt lão sẽ đủ ăn tiêu để vượt qua thời khốn khó. Nhưng lão lại lo khi con trai về không có đất sinh sống làm ăn. Vậy là lão đã nhận lấy cái chết rồi nhờ ông giáo giữ đất cho con. Chao ôi! Tình yêu thương con của lão thật cảm động biết mấy!

Yêu thương những người thân yêu ruột thịt, lão Hạc còn là một người sống đầy tự trọng trước cuộc đời nhiều cám dỗ và tội lỗi. Vào hoàn cảnh như lão, người ta đã có thể ăn trộm, ăn cắp hay thậm chí ăn bám vào người khác (như Binh Tư chẳng hạn, hay người đàn bà trong “Một bữa no” của Nam Caor..) nhưng lão Hạc thì không. Với sự giúp đỡ của ông giáo (mà cũng có gì đâu, đó chỉ là củ khoai, củ sắn) lão “từ chối gần như hách dịch” khiến ông giáo nhiều khi cũng chạnh lòng. Binh Tư ngỡ rằng lão xin bả để ăn trộm chó “lão cũng ra phết đấy chứ chẳng vừa đâu”. Đến lượt ông giáo cũng nghi ngờ: “con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư? cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn”. Nhưng cuối cùng tất cả đều ngỡ ngàng, sửng sốt trước cái chết đột ngột của lão. Hay còn cách khác: lão có thể bán quách mảnh vườn đi. Nhưng lão lại nghĩ rằng đó là mảnh vườn của con lão. Và lão đã thà chết chứ không ăn của con!

Lòng tự trọng của lão Hạc rực sáng nhất ngay khi thân xác lão đau đớn nhất. Lão đã chọn cái chết, một cái chết khốc liệt để tâm hồn mình được trong sạch, được trọn vẹn tình nghĩa với tất thảy mọi người – kể cả với con chó Vàng tội nghiệp. Nhưng còn một chi tiết khác cũng cảm động vô cùng. Lão đã tính toán để ngay cả khi chết đi rồi cũng không làm phiền đến mọi người: lão đã gửi ông giáo mấy chục đồng bạc, định khi mình nằm xuống thì nhờ ông giáo lo liệu ma chay khỏi làm phiền hàng xóm! Hỡi ôi lão Hạc!

Xây dựng nhân vật lão Hạc, Nam Cao đã sử dụng nghệ thuật khắc họa nhân vật tài tình. Điều đó được thể hiện trong đoạn văn miêu tả bộ dạng, cử chỉ của lão Hạc khi kể cho ông giáo chuyện lừa bán cậu Vàng, trong đoạn miêu tả sự vật vã đau đớn dữ dội của lão Hạc trước lúc chết. Ngôn ngữ nhà văn sử dụng trong tác phẩm sinh động, ấn tượng, giàu tính tạo hình và hết sức gợi cảm.

Qua nhân vật lão Hạc, nhà văn đã thể hiện tinh thần nhân đạo tiến bộ sâu sắc.

Nam Cao đã đồng cảm đến tận cùng với cái nghèo, cái đói của người nông dân Việt Nam trong nạn đói 1945. Thời cuộc đã dồn họ đến đường cùng và lối thoát nhanh chóng nhất là cái chết nghiệt ngã.

Nhưng trên hết, nhà văn đã biết nâng niu trân trọng vẻ đẹp tâm hồn cao khiết của người nông dân ngay cả khi họ bước vào đường cùng. Không chỉ giàu tình yêu thương, người nông dân còn sống đầy tự trọng. Trong cái đói, tự trọng là thứ gì đó xa xỉ vô cùng. Vì miếng ăn, người ta có thể tàn nhẫn, dã man, thậm chí mất hết nhân tính. Nhưng đáng trọng thay lão Hạc, lão không chỉ giữ được tình thương tươi mát mà còn giữ được lòng tự trọng vàng đá của mình.

Và chính nhờ vẻ đẹp tươi sáng ấy của lão Hạc mà Nam Cao đã chiệm nghiệm: “Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn”. Chưa đáng buồn bởi còn có những con người cao quý như Lão Hạc. Viết câu văn ấy, nhà văn đã bày tỏ thái độ tin tưởng đối phẩm cách tốt đẹp của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Điều ấy đáng quý vô cùng bởi trước Cách mạng, người nông dân bị coi rẻ như cỏ rác, thậm chí có nhà văn còn nhận định người nông dân “như những con lợn không tư tưởng”. Và bởi thế, tư tưởng của Nam Cao đáng ca ngợi biết bao!

Nhân vật lão Hạc của nhà văn Nam Cao là một nhân vật có nhiều đặc điểm đáng quý, đáng trân trọng. Từ lão Hạc, người nông dân Việt Nam có quyền tự hào về tâm hồn và phẩm cách của mình. Dựng lên nhân vật này, nhà văn Nam cao đã khẳng định một quan điểm giàu tính nhân đạo sâu sắc.

Bài viết trên đây PUD đã giúp bạn có những kiến thức hữu ích khi phân tích nhân vật lão Hạc trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao. Hy vọng với những thông tin trên sẽ hữu ích cho bạn trong quá trình nghiên cứu và học tập của bản thân về chủ đề cảm nhận và phân tích nhân vật lão Hạc. Chúc bạn luôn học tốt!